Category Archives: Lâm Nghiệp Đô Thị
Hệ sinh thái ven sông rạch tại thành phố Hồ Chí Minh đang bị hủy diệt

Thực vật ven sông rạch
Thực vật ven sông rạch
Mối đe dọa của thực vật ngập nước ven sông rạch từ việc phát triển không bền vững
Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông rạch dày đặt và đã tạo thành các hệ sinh thái đặc trưng: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái úng phèn, hệ sinh thái ngập nước ven sông rạch. Các sông rạch thuộc hệ thống sông Sài Gòn, sông Nhà bè… có các vùng đất trũng ngập thường xuyên (wetland) tạo thành nhiều sinh cảnh tự nhiên, hệ thực vật phân bố tự nhiên theo mức độ nhiễm phèn hoặc mặn của hệ thống sông đó mà hiếm có thành phố nào có được; phần lớn các loài thực vật này được tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế đưa vào sách đỏ như xu ổi, xu đỏ, mấn trắng, gõ biển, bần chua, cui biển, săng máu rạch… và Tổng cục Lâm nghiệp đưa vào cây lâm nghiệp chính như tràm chua, gáo vàng…
Phát triển khu công nghiệp, khu dân cư là mối đe dạo chính
Trong những năm gần đây, Thành phố đã đầu tư rất nhiều vào việc phát triển kinh tế – xã hội, có những chủ trương chính sách hợp lý để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông nhiều và trải rộng khắp thành phố; tạo ra nhiều công ăn việc. Nhiều khu công nghiệp, khu dân cư phát triển với qui mô lớn, khang trang hơn và mảng xanh cũng được chú trọng… tuy nhiên, về mặt môi trường còn nhiều bất cập.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên tại các vùng lung trũng ngập nước ven sông rạch bị đe dọa nghiêm trọng, trong đó có hệ thực vật đặt trưng đang ở bên bờ vực thẳm của sự phát triển không bền vững mà hệ thực vật này có vai trò rất quan trọng việc thích ứng với biến đổi khí hậu của Thành phố. Tốc độ đô thị hóa, pháp triển các khu công nghiệp dàn trải tại Thành phố đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng tại một số sông rạch tại các quận 12, Thủ Đức…; huyện Hóc Môn, Bình Chánh… đã làm thay đổi hệ sinh thái, một số loài đặc trưng đã biến mất.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các thực vật ngoại lai phát triển (cúc bò, cỏ hôi, lục bình…), du nhập các loài cây hạn chế trồng như bàng Đài Loan, sò đo cam, cau vua… các loài cây này phát triển nhanh, rễ bàng ăn nông gây thiệt cho các công trình và các cơ sở vật chất khác; sâu bệnh gây nguy hiểm cho môi trường, không có khả năng bảo vệ môi trường, chống lại xói mòn và sạt lở bờ sông rạch.
Các nghiên cứu ở nước ngoài về lợi ích của thực vật ngập nước
Mặc dù trong nước chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu cụ thể hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng của từng loài nhưng các tài liệu trên quốc tế, tổ chức bảo tổn thiên nhiên quốc tế… Tại một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Singapore…đã công bố nhiều tài liệu nghiên cứu về công dụng của chúng đối với môi trường, dược liệu và các bài thuốc, gỗ, thực phẩm cho con người và các loài động vật khác.
Theo tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (the red list of the IUCN) công bố trong sách đỏ về các loài thực vật có nguy cơ đe dọa cao thuộc thực vật ngập nước thì chúng ta đã có 7 loài (gỗ biển/nước Intsia bijuga; cui biển Heritiera littoralis; mấm trắng avicennia alba; bần chua sonneratia caseolaris, xu ổi xylocarpus grannatum; xu đỏ xylocarpus moluccensis; xăng máu rạch Horsfieldia irya …
Tại Singapore người ta đã đưa toàn bộ các loài thực vật thân gỗ ngập nước ven sông rạch vào sách đỏ của họ trong danh mục các loài cây bị đe dọa và là loài cây ưu tiên trồng trong các khu dân cư để mọi người dân tham gia bảo tồn.
Thái Lan có rất nhiều công trình nghiêm cứu cây nhạc ngựa nước Amoora cucullata, hậu phát (quế rừng) Cinamomum iners, bần chua sonneratia caseolaris, dừa lá Nyphia fruticanvề khả năng hấp thụ kim loại nặng trong nước như Cd-codinium, Cr-chromium, Cu-copper, Pb-lead, Zn-zine; làm trong sạch nước; bảo vệ môi trường; chống sạt lở bờ sông; gỗ làm than…(Tạp chí Môi trường Châu Á, 2010). Do đó khi xây dựng các khu đô thị trên những vùng đất ngập nước hoặc gần sông rạch người ta sử dụng các loài bản địa để trồng trong khu dân cư và trên đường phố, hạn chế trồng cây ngoại nhập.
Theo nghiên cứu về dược thảo của tiến sĩ Godofredo Stuart đăng trên tạp chí cây thuốc: phân lớn các loài cây mọc ven sông rạch là nguồn dược liệu dùng để chữa các bệnh như tiêu chảy, cầm máu, trị thấp khớp, cảm cúm. Vỏ lụa của cây cui biển và nhạc ngựa nước trị gãy xương; nước ép của lá và cuống lá trị hen suyễn (Cambie và Ash, 1994).
Thành phố đã triển khai dự án trồng 500.000 cây xanh bản địa nhằm phục hồi, bảo tồn và chống sạt lở, bảo vệ bờ đê ven sông rạch đã phát huy rất hiệu quả nhưng???
Tại sao chúng ta phải loại bỏ!!!

Lợi ích của rừng và cây xanh đô thị
Lợi ích của rừng và cây xanh đô thị
Rừng và cây xanh đô thị đóng một vai trò rất quan trọng trong việc mang lại lợi ích cho con người, xã hội và môi trường trong đô thị. Những lợi ích này xuất phát từ rừng tự nhiên, rừng trồng, các vành đai xanh, không gian xanh, các loài trồng đơn lẻ… trong thành phố. Rừng và cây xanh đô thị có tác dụng làm giảm các đảo nhiệt và tạo ra các khoảng không gian xanh nhằm duy trì cảnh quan xanh cho thành phố, tăng giá trì bất động sản. Không gian xanh đóng góp một cách tích cực để tạo ra giá trị vật chất, tinh thần và môi trường sống không những cho cá nhân riêng rẽ mà còn cho cộng đồng dân cư trong đô thị.
Lợi ích của rừng và cây xanh đô thị được cung cấp cho con người và môi trường từ các khu rừng tự nhiên, rừng trồng, vùng đệm, các công viên, không gian mở…mà các vùng này cho phép tạo các khu vui chơi giải trí; các hoạt động ngoài trời; đời sống hoang dã; cảnh quan thiên nhiên và các loại tiện ích khác (Sterm, 1984)
Sự năng nổ quá mức hoặc xu hướng trồng phủ xanh thành phố bằng bất cứ cây nào có thể tồn tại được đã dẫn đến việc trồng cây không đúng nơi, không đúng chỗ. Việc chuẩn hóa cây non trồng trong đô thị cần phải cụ thể hóa chiều cao thân cây, cành nhánh, trục thân chính, đường kính thân hoặc đường kính cổ rễ…có sự tương quan giữa đường kính túi bầu, chiều cao túi bầu cho từng loài cây cụ thể. Không nên trồng cây quá to, bộ rễ chống đỡ bị cắt… sẽ gây hại trong tương lai. Nhiều loài cây trồng đường phố mang tính thẩm mỹ nhiều hơn là bóng mát như bò cặp nước, phượng vỹ, kèn hồng…hoặc sử dụng cây nhập nội quá nhiều như bàng Đài Loan, giáng hương Thái Lan, liễu rũ, long não trong số các loài này sẽ có nguy cơ gây hại cho môi trường… ít chú trọng đến các loài cây bản địa như ô dướt/quế rừng, lộc vừng, nhạc ngựa nước, cui biển.
Lợi ích của rừng và cây xanh đô thị được thể hiện qua kết cấu của thực vật. Hầu hết các loài thực vật sống riêng biệt được liên kết thành các cấp thực vật riêng lẽ hoặc trúc thành rừng. Cấu trúc này là chức năng của nhiều nhân tố cấu thành, số lượng loài thực vật có mối quan hệ tương hổ, cùng sinh sống tạo thành quần thụ bao gồm các loài cây thân gỗ lớn, cây nhỡ, cây bụi, dây leo, thảm cỏ… trộn lẫn các loài cây này để làm thế nào chúng có thể cùng đứng trong cùng một không gian, cùng phát triển tạo ra không gian môi trường có lợi nhất cho con người.
Cấu trúc đơn loài mang lại cấu trúc cảnh quan riêng lẻ gồm một loài thực vật hoặc nhiều loài thực vật có cùng cấp tuổi thông thường trồng trên vỉa hè cho mục đích cung cấp bóng mát, trang trí, gợi nhớ quê hương, kỷ niệm, tôn giáo, tín ngưỡng…
Cấu trúc đa chủng loài nhằm mục đích tạo ra hệ sinh thái cảnh quan đặc trưng như hệ sinh thái rừng ngập mặn, rừng úng phèn, rừng mưa nhiệt đới, ven sông rạch sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các loài động vật hoang dã sinh sống, hấp thụ các chất ô nhiễm từ nguồn nước và không khí; nơi tích tụ carbon. Ngoài ra, cấu trúc đa chủng loài cũng được tạo nên bởi con người nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, sức khỏe, nghiên cứu hóc tập như công viên, vườn sưu tập thực vật.
Cấu trúc của thực vật tự nhiên hoặc phục hồi từ các khu rừng tự nhiên bao gồm các khu rừng đặc trưng quanh thành phố như rừng ngập mặn, rừng úng phèn, rừng mưa nhiệt đới, thực vật ngập nước ven sông rạch… sẽ tạo thành các khu du lịch, tham quan, nghiên cứu học tập, các hoạt động ngoài trời như cắm trại, khám phá thiên nhiên…
Vì thế cấu trúc thực vật được định bởi các loài thực vật được trồng để bao phủ không gian trong không gian xanh đô thị là cấu trúc đứng và ngang theo nguyên tắc đa dạng sinh học bản địa.
Nguyễn sơn thụy